Cài đặt tùy chỉnh

Tùy chỉnh
Mục lục
Đánh dấu

Lưu luyến và đoạn tuyệt (Sinh vạn vật)

Chương 2

Ngày cập nhật : 2025-08-16 18:03:29
Miếu Thiên Ngưu được đặt tên theo một vật kỳ lạ. Vật ấy là một tảng đá to lớn, đen ánh tím, nằm trên khoảng đất trống trước làng, tựa như một con bò già đang nghỉ ngơi. Kỳ lạ thay, cả trong lẫn ngoài làng Thiên Ngưu đều là đất vàng, duy chỉ nơi này có một tảng đá khổng lồ. Về nguồn gốc của nó, người dân đều tin vào một truyền thuyết: không biết từ vài trăm hay vài ngàn năm trước, vào một đêm nọ, một nữ đạo sĩ đang chữa bệnh cho một gia đình trong làng, bỗng nghe trên trời vang lên tiếng ù ù, ngoài cửa sổ sáng rực như ban ngày. Nữ đạo sĩ bước ra xem, thấy trên trời có ba con bò đang bay: một con bò vàng, một con bò đồng, một con bò sắt. Nữ đạo sĩ vung phất trần, đánh rơi con bò sắt xuống đất. Từ đó, vật kỳ lạ này ở lại nơi đây. Không biết từ triều đại nào, cạnh tảng đá còn được xây một ngôi miếu, gọi là miếu Thiên Ngưu. Tương truyền, miếu này từng có nữ đạo sĩ, đạo sĩ, ni cô, hòa thượng cư ngụ. Qua bao thế hệ binh biến loạn lạc, miếu bị phá rồi xây, xây rồi lại phá. Vào thời Hàm Phong Đại Thanh, quân tóc dài của Trại Tam Thốc Tử đóng tại miếu này để đánh nhau với quân triều đình, khi rút lui, họ đốt cháy miếu thành bình địa. Từ đó, miếu không được xây lại, chỉ còn tên làng giữ lại ba chữ này, cùng chút ý nghĩa tưởng nhớ ngôi miếu.
Dù có miếu hay không, con bò sắt này vẫn lặng lẽ nằm đó. Thời gian trôi qua, dân chúng dần xem tảng đá như vật bình thường. Đến năm Dân Quốc thứ ba (1914), khi cha của Ninh Học Tường dẫn dân làng xây tường bao để chống thổ phỉ, vì gần tảng đá không có nhà dân, họ không đưa nó vào trong tường bao mà để nó ở ngoài cổng nam.
Nhưng bọn trẻ thì nhớ đến nó. Xuân hạ thu đông, năm này qua năm khác, cạnh con bò sắt luôn có những đứa trẻ chơi đùa. Một lứa trẻ lớn lên, đi làm việc khác thì lứa trẻ khác lại tụ tập nơi đây. Chúng trèo lên trèo xuống trên tảng đá, đánh nhau, nô đùa. Một vài cậu bé còn thường chìa hai ngón tay làm súng, tè một bãi nước tiểu lên con bò sắt rồi vỗ mông hát bài đồng dao truyền từ đời này sang đời khác:  
Ăn cơm xong, chẳng có việc,  
Vác sọt đi nhặt phân rơi,  
Gom tiền bạc, mua đất đai,  
Cưới vợ hiền nối dõi đời!
Hôm nay, bên cạnh con bò sắt không có đứa trẻ nào. Đêm qua tuyết rơi dày, cả khu vực ngoài cổng nam phủ một màu trắng bạc, con bò sắt bị tuyết vùi lấp hơn nửa thân, chỉ còn vài mảng tím đen lộ ra ở chỗ lõm bụng. Trời vẫn âm u, gió bắc thổi vù vù, tuyết trên mặt đất thỉnh thoảng bị cuốn lên thành từng vệt, xoay vài vòng trên không rồi lặng lẽ rơi xuống.
Cổng nam mở ra. Hai người gác cổng, mỗi người cầm một cây chổi, quét sạch hai trượng đường trong phố lớn, rồi quét thêm hai trượng ra ngoài cổng, coi như hoàn thành nhiệm vụ, sau đó chui vào lều nhỏ bên cổng để sưởi ấm.
Lúc này, trong cổng tường xuất hiện một chàng trai trẻ. Anh mặc áo quần vải thô màu xanh, thắt dây cỏ quanh eo và hai ống quần, tay cầm một chiếc xẻng gỗ cũ kỹ. Anh bước tới chỗ đường quét tuyết đen trắng giao nhau, ngẩng khuôn mặt thô ráp nhưng ngay ngắn, nhìn về phía con bò sắt, nhổ một bãi nước bọt vào tay rồi bắt đầu xúc tuyết. Xúc một xẻng ném sang trái, xúc một xẻng ném sang phải, lặp lại vài lần, một con đường hẹp bắt đầu hiện ra. Con đường kéo dài về phía con bò sắt. Trên đường vẫn còn chút tuyết lác đác, để lộ dấu chân của chàng trai. Dấu chân ấy rất lạ: bên phải giống người thường nhưng bên trái lại lớn gấp đôi. Dấu chân to bất thường ấy đến từ bàn chân trái kỳ dị của chàng trai. Giữa mùa đông, đi giày bông, bàn chân ấy trông như một chú lợn con!
Chàng trai này tên là Phong Đại Cước, là con trai của Phong Nhị Mũi Đỏ.
Cũng không biết vì sao, chàng trai sinh ra đã có bàn chân trái to lớn. Bà mối Hoa Nhị là người đỡ đẻ cho anh, từng kể rằng khi ở trong bụng mẹ, anh thò chân trái ra trước. Bàn chân vừa ló ra đã khiến Hoa Nhị giật mình, bà nói: Trời ơi, bàn chân này to như chân đứa trẻ bảy tám tuổi, không biết người nó lớn cỡ nào? Chị ơi, hôm nay e là chị khó giữ mạng. Lời này khiến mẹ Đại Cước khóc nức nở. Phong Nhị đứng ngoài cửa cũng toát mồ hôi lạnh, chạy vào cầu xin: Cô ơi, làm ơn, dù thế nào cũng phải cứu mẹ con họ! Bà mối Hoa Nhị đáp: Tôi sẽ cố, nếu không được thì đành phó mặc cho số trời! Bà bảo Phong Nhị nhổ bảy sợi lông ở háng, đặt vào bát sắt, nướng trên ngọn đèn cho cháy rồi hòa với nước cho mẹ uống, sau đó chờ. Bàn chân thò ra giữa hai chân mẹ, thỉnh thoảng còn động đậy, như thể thăm dò thực hư của thế giới này. Chờ trọn một ngày một đêm, cuối cùng bàn chân nhỏ ấy cũng chui ra. Tiếp đó cả đứa trẻ ra đời. Đó chính là Phong Đại Cước. Người mẹ nhìn đôi chân một lớn một nhỏ của con, lo lắng: Thế này thì làm sao đây? Phong Nhị nói: Không sao, vài năm nữa chân nhỏ sẽ lớn bằng chân lớn. Ai ngờ vài năm trôi qua, chân nhỏ lớn lên, chân lớn cũng lớn, luôn to hơn gấp đôi, trở thành gánh nặng khiến cậu đi lại khập khiễng. Vợ chồng Phong Nhị đành chấp nhận sự thật, mở miệng gọi con là “Đại Cước”. Sau này, đến khi cậu mười mấy tuổi, cả làng đều gọi cậu là Đại Cước.
Chỉ một lát, Đại Cước đã dọn đường đến chỗ con bò sắt. Trước tiên, anh cạo sạch tuyết đọng trên thân con bò, sau đó dọn ra một khoảng đất trống xung quanh. Xong xuôi, anh chống xẻng đứng đó, thổi một hơi ấm vào tay, nhìn con bò sắt một lúc. Lúc này anh cảm thấy lòng mình nhẹ nhõm. Có lẽ cách đây năm sáu năm, sau một trận tuyết lớn, tuyết ngừng rơi mấy ngày mà chỗ này vẫn đầy tuyết tan và bùn lầy. Nghĩ đến truyền thuyết của người xưa, lại nhớ những ngày thơ ấu chơi đùa bên con bò sắt, anh đột nhiên cảm thấy có lỗi với nó. Từ đó, mỗi khi tuyết rơi, sau khi quét dọn sân nhà, anh lại đến đây dọn tuyết cho con bò sắt.
Lúc này, Phong Đại Cước liếc nhìn về phía cổng tường bao. Anh hy vọng lúc này sẽ thấy vài đứa trẻ đến chơi. Nhưng không thấy ai. Dù vậy, anh biết đến trưa, khi trời ấm hơn, trẻ con sẽ lại kéo đến. Nghĩ vậy, lòng anh ấm áp. Anh dậm đôi chân một lớn một nhỏ, khập khiễng bước về nhà.
Trong con ngõ thứ hai theo hướng đông tây bên trong tường bao, ba hộ gia đình sống kề nhau. Nhà Phong Đại Cước nằm ở giữa. Vừa bước vào sân đầy phân gà rơi như sao trên trời, anh thấy cha mình là Phong Nhịđang hớn hở nói gì đó với mẹ. Anh không biết tại sao cha lại phấn khởi như vậy. Mấy ngày trước, nghe tin con gái nhà Ninh Học Tường bị thổ phỉ bắt, cha anh vội lấy mười hai đồng tiết kiệm bấy lâu, định mua đất. Thường thì mười hai đồng không đủ mua một mẫu, nhưng cha bảo nhất định mua được, vì nhà họ Ninh đang cần tiền gấp, đất sẽ rẻ. Không ngờ nhà họ Ninh không bán khiến kế hoạch của cha thất bại, còn bị Ninh Học Tường mắng cho một trận. Sau khi cất tiền lại vào hũ, chôn ở góc tường, cha anh ủ rũ mấy ngày liền, chẳng biết hôm nay vui vì chuyện gì.
Lúc này, cha anh bất ngờ bước ra ngoài. Đi ngang qua Phong Đại Cước, cha nhìn anh với vẻ lấy lòng: “Ta đi tìm cô Hoa Nhị của con đây!” Đại Cước hỏi: “Để làm gì?” Cha đáp: “Hỏi vợ cho con chứ sao!” Rồi ông cúi lưng vội vã đi. Phong Đại Cước nhìn theo bóng cha, đặt xẻng gỗ cạnh tường, lẩm bẩm: “Vô ích thôi!” Vì bàn chân to khác thường, mấy năm qua cha mẹ tìm người mai mối nhiều lần nhưng đều thất bại khiến anh mất niềm tin vào chuyện hôn nhân.
Lúc này, mẹ lên tiếng: “Đại Cước, con biết cha con nhờ cô Hoa Nhị đi hỏi ai không?”
“Ai ạ?”
“Cô cả nhà Ninh Học Tường.”
Đại Cước lập tức sững người: “Chẳng phải cô ấy bị thổ phỉ bắt đi sao?”
Mẹ nói: “Đêm qua nó trốn về được. Cha con vừa nghe chuyện này ngoài phố, về nhà đã bảo mẹ rằng sẽ nhờ cô Hoa Nhị đi hỏi.”
Đại Cước vô cùng kinh ngạc. Anh không ngạc nhiên vì cô cả nhà họ Ninh trở về mà vì ý nghĩ viển vông của cha. Không ngờ cha anh vốn định nhân cơ hội mua rẻ đất nhà họ Ninh, giờ lại nhắm đến con gái nhà người ta. Tú Tú đã ở hang thổ phỉ mấy ngày, nhưng dù thế nào, cô ấy vẫn là cô chủ nhà giàu, liệu có để mắt đến nhà mình, đến một kẻ chân to như anh? Hừ! Đại Cước cười thầm trong bụng. Thấy thùng nước sắp cạn, anh nhấc đòn gánh đi lấy nước.
Giếng nước nằm ở trung tâm làng. Khi đi qua vài ngã tư, anh nghe những người đứng ở góc phố thì thầm về chuyện nhà họ Ninh. Có người nói, không giấu nổi vẻ hả hê: “Nghe nói cái chiếu dưới thân, một đêm đã đạp rách, người thì như miếng thịt chó thối!” Từ những lời này, Đại Cước hiểu ra điều gì đó, lòng bỗng đập nhanh, mặt nóng bừng. Gánh chuyến nước đầu tiên về, cha  đang ngồi trong gian chính hút thuốc, trên mặt vẫn giữ vẻ hứng khởi. Ông nói với con trai: “Cô Hoa Nhị đã đồng ý đi hỏi, giờ chắc đã ở nhà họ Ninh rồi!” Đại Cước bực bội: “Con không muốn lấy cô ấy!” Phong Nhị ngạc nhiên trước lời con trai, hỏi: “Sao lại không muốn?” Đại Cước đáp: “Người ngoài phố nói Tú Tú đã thành thịt chó thối!” Phong Nhị vỗ đùi: “Nói bậy! Dù có thối thì vẫn là thịt, còn hơn khoai khô! Cứ đợi mà xem, con cưới được cô ấy, phúc lớn đến đâu hưởng đến đó!” Đại Cước biết mình không cãi lại được cha, bèn đi một mình vào phòng phía đông nơi anh ở, nằm trên giường, lòng rối như tơ.
Một lúc sau, trong sân vang lên tiếng bước chân, tiếp đó là giọng cô Hoa Nhị: “Anh chị ơi, xong rồi! Xong rồi!”
Vợ chồng Phong Nhị chạy ra sân, mừng rỡ khôn xiết: “Thật sao? Ôi trời đất ơi! Đại Cước, còn không ra cảm ơn cô con!”
Phong Đại Cước không ngờ chuyện này lại thành thật, vừa định đứng dậy, cha mẹ và cô Hoa Nhị đã vào phòng anh. Cô Hoa Nhị nhìn anh, nói: “Thằng nhóc này, sao mà có phúc thế!”
Rồi cô Hoa Nhị kể tình hình nhà họ Ninh: Sau khi Tú Tú từ núi về, cô không ăn một hạt cơm. Điền thị bảo bà vú Lý làm hết món này đến món khác, toàn là những món Tú Tú thích, nhưng cô chẳng động đến món nào. Điền thị cố nhét đũa vào tay cô, khó khăn như nhét một con giun, các món ăn vẫn nguyên vẹn trên bàn trước giường như đồ cúng thần. Khi cô Hoa Nhị đến, Tô Tô cũng đã trở về từ nhà họ Phí, nhưng cô khuyên chị cũng không được. Điền thị bất lực, đành gọi lão gia đến. Ninh Học Tường bước vào phòng Tú Tú, bực bội nói: “Không ăn cơm? Sao lại không ăn?” Tú Tú mở mắt: “Cha đã không cần con, ai còn ăn cơm nhà cha?” Ninh Học Tường nói: “Không ăn thì chết đói!” Tú Tú nói: “Chết thì vừa ý cha, con cứ không chết!” Cô nhìn cô Hoa Nhị: “Chị Hai, chị không mau tìm người cho tôi sao?” Cô Hoa Nhị mừng rỡ, vội nói: “Được được, cô cả muốn tìm người thế nào?” Tú Tú nói: “Người nào cũng được, tốt xấu tôi không chê.” Lúc này, cô Hoa Nhị nói rõ ý định của mình, Tú Tú lập tức đồng ý, xuống giường định đi theo ngay. Điền thị và Tô Tô vội ngăn lại. Điền thị nói: “Tú Tú, con tìm chồng cũng được, nhưng không thể nói đi là đi, phải chọn ngày.” Tú Tú cười khổ: “Giờ con còn thua cả heo chó, còn chọn lựa gì nữa? Thật lòng mà nói, con đói rồi, muốn mau tìm chỗ ăn cơm.” Nghe vậy, Điền thị và Tô Tô nhìn bàn đầy thức ăn ngon mà khóc. Cô Hoa Nhị nói: “Em muốn đi ngay cũng được, nhưng tôi phải báo với nhà Phong Nhị một tiếng. Em đợi chút, tôi đi nói rồi quay lại dẫn em.” Thế là cô Hoa Nhị vội vã trở về…
Nghe xong, Phong Nhị lập tức hỏi: “Ồ, nhà họ cho hồi môn gì?”
Cô Hoa Nhị vỗ tay: “Ôi, đừng nhắc nữa. Mẹ cô ấy nói đến chuyện này, lão gia còn nghiến răng cho cô ấy mười lăm mẫu đất, là Tú Tú không cần, chết cũng không lấy.”
Phong Nhị nói: “Ồ, không có hồi môn gì sao? Không có hồi môn thì ta cần cái đồ hỏng ấy làm gì? Không lấy, không lấy!”
Cô Hoa Nhị nói: “Không lấy à? Vậy tôi đi trả lời họ.” Nói rồi định đi.
Vợ Phong Nhị nói: “Cô ơi, khoan đi đã. Không có hồi môn thì không lấy, chuyện gì thế này? Đại Cước đâu? Đại Cước, con nói xem có lấy không?”
Đại Cước cúi đầu suy nghĩ một lúc, rồi ôm đầu, quả quyết: “Lấy!”
Cô Hoa Nhị chỉ tay vào trán Phong Nhị: “Anh này, tính toán vẫn kém lắm. Anh không nghĩ xem, dù nhà người ta không cho hồi môn, nhưng mình khỏi lo lễ hỏi, chẳng phải tiết kiệm được bao nhiêu sao?”
Nghe vậy, Phong Nhị lại vui vẻ. Ông sờ mũi đỏ, nói: “Nghe cô, nghe cô!”
Cô Hoa Nhị liền dặn gia đình này mau làm cơm và dọn dẹp giường chiếu. Dặn xong, bà khệ nệ bước đi trên đôi chân nhỏ.
Bên này, vợ chồng Phong Nhị bắt tay vào việc. Bà vợ đào bột mì trắng ra cán mì sợi, ông chồng chạy sang nhà vừa tổ chức hỷ sự mượn chăn mới. Thấy Đại Cước còn đứng ngây ra, bà vợ vừa nhào bột vừa quát: “Thằng ngốc, vợ sắp về mà còn không dọn phòng!” Đại Cước chạy vào phòng, gom đống nông cụ lộn xộn vào góc tường, chỉnh lại manh chiếu rách trên giường, rồi quét sơ mặt đất.
Lúc này Phong Nhị ôm một bộ chăn mới về, theo sau là Nị Vị, em họ của Đại Cước. Phong Nhị đưa chăn cho con trai, rút từ ngực áo ra một chuỗi pháo. Ông nói: “Dù thế nào, dâu mới về nhà cũng phải đốt một chuỗi pháo!” Ông tìm một cây sào, bảo Nị Vị cầm ra cổng chờ, còn mình chạy vào bếp giúp vợ đun nước.
Nước vừa sôi, Nị Vị ngoài cổng hét lên: “Đến rồi! Đến rồi!” Vợ chồng Phong Nhị chạy ra, quả nhiên thấy cô Hoa Nhị đang dìu Tú Tú đến. Phía sau hai người là cả đám người hiếu kỳ theo xem náo nhiệt. Bên này, Nị Vị châm pháo, từng làn khói xanh tỏa ra trước cổng nhà Phong Nhị.
Đại Cước không dám ra ngoài. Anh đứng trong sân, lòng rối như tơ, tim đập thình thịch như ôm thỏ. Thấy hơi nước bốc lên từ nhà bếp phía tây, anh nghĩ: Mình đi nấu mì vậy. Anh vào gian chính lấy mì mẹ cán sẵn, mang ra bếp, mở nắp nồi cho mì vào, rồi ngồi xuống nhóm lửa. Sân đông nghịt người, anh cũng không dám ngoảnh lại nhìn.
Bà mẹ phát hiện ra con trai. Bà nói: “Mày ngồi đây làm gì? Còn không đi xem vợ mày!” Đại Cước đáp: “Mì chín rồi.” Mẹ mở nắp nồi xem, quả nhiên đã chín, vội lấy bát múc. Múc xong, bà bảo Đại Cước mang vào gian chính. Đại Cước bước vào, lúc này mới thấy Tú Tú. Khuôn mặt nhỏ của cô trắng bệch như tờ giấy, ngồi im không nói, cô Hoa Nhị đang lo lắng đỡ cánh tay cô. Đại Cước đặt hai bát mì lên bàn, ngượng ngùng nói: “Ăn cơm đi.”
Phong Đại Cước thấy Tú Tú nhìn bát mì, rồi ngẩng lên nhìn anh.
Cô Hoa Nhị cầm đôi đũa đưa cho Tú Tú: “Ăn đi, cô cả.” Tú Tú cười khổ: “Ai còn là cô cả nữa?” Cô Hoa Nhị vội sửa lời: “Ồ, chị dâu, mau ăn đi.” Tú Tú bưng bát ăn. Có vẻ cô thật sự đói, bát mì đầy ngập chỉ trong chốc lát đã hết sạch, không có chút vẻ đoan trang của cô chủ nhà giàu.
Ăn xong, cô lau miệng, ngáp một cái thật to. Khi cô Hoa Nhị cũng ăn xong, Tú Tú nói: “Tôi muốn ngủ.” Cô Hoa Nhị đáp: “Vậy thì ngủ!” Rồi dìu Tú Tú vào phòng phía đông. Sau khi sắp xếp xong, bà ra sân nói lớn với đám người hiếu kỳ: “Đi đi, đi đi, người ta ngủ rồi!” Cả sân người ồn ào kéo nhau ra về.
Đuổi đám đông đi, cô Hoa Nhị trở vào gian chính, nói với Đại Cước vẫn đang ngồi ngây ra: “Cháu nhớ kỹ: đợi cô ấy có kỳ kinh nguyệt rồi mới chung phòng. Nếu không, sinh ra một đứa con của thổ phỉ, cháu vẫn tưởng là con mình.” Mẹ Đại Cước cũng vội gật đầu đồng tình: “Cô con nói đúng, nhất định phải nhớ!” Nghe những lời này, mặt Đại Cước tím như tương.
Tú Tú ngủ một mạch đến trưa hôm sau.
Đêm đó, Đại Cước ngồi ở cuối giường trông cô. Nhìn Tú Tú ngủ ở đầu kia, anh như đang mơ. Anh không thể ngờ cô cả nhà họ Ninh lại ngủ trên chiếc giường rách toát mùi mồ hôi nồng nặc của mình. Hồi nhỏ anh thường thấy Tú Tú ngoài phố, lúc đó hai chị em cô hay nắm tay nhau chơi. Nhưng khi lớn lên, Đại Cước ít gặp họ. Năm sáu năm qua, anh chỉ gặp một hai lần. Lần cuối là mùa xuân năm ngoái, khi anh đang làm đồng, Điền thị dẫn hai con gái về thăm nhà mẹ đẻ, đi ngang qua Nam Lĩnh. Điền thị được Tiểu Thuyết đẩy xe, hai chị em đi bộ phía sau. Tú Tú mặc áo màu trắng ngà, khuôn mặt hồng hào, đẹp không tả xiết. Trong khoảnh khắc liếc trộm, không hiểu sao anh như giẫm phải vật lạ, một cảm giác tê dại từ bàn chân to lan lên tận đỉnh đầu.
Lúc này, nhìn khuôn mặt xinh đẹp nửa khuất sau mái tóc đen, Đại Cước lại cảm nhận luồng cảm giác ấy. Cảm giác khiến anh run lên từng đợt. Không dám nhìn nữa, anh thu mình như con chó ở cuối giường Tú Tú, mơ màng chịu đựng đến sáng.
Sáng hôm sau, vợ chồng Phong Nhị bàn bạc, đến trưa nên làm một bữa cơm ngon cho Tú Tú ăn. Phong Nhị không nghĩ ngợi, nói ngay: “Ta đi mượn cá!” Vợ ông trừng mắt: “Ông nghĩ ra được cái gì! Người ta là cô chủ nhà giàu, ông định lừa cô ấy thế à?” Mượn cá là cách làm phổ biến ở đây: khi nhà có khách, người ta mượn một con cá vảy trắng từ nhà khác, mang về bọc một lớp bột, chiên lên rồi dọn ra. Khách hiểu ý, khi ăn chỉ gỡ lớp bột bên ngoài. Khi tiệc tan, con cá vẫn nguyên vẹn, trả lại chủ. Dĩ nhiên khi trả phải kèm một bát thức ăn thừa hoặc cơm thừa làm thù lao. Có nhà mượn một con cá như vậy, cho mượn hàng chục lần, đổi về được kha khá đồ ăn thừa. Được vợ nhắc, Phong Nhị cũng thấy mượn cá cho Tú Tú ăn là không ổn, cắn răng nói: “Ta ra chợ mua!” Hôm đó đúng ngày họp chợ ở miếu Thiên Ngưu, Phong Nhị mang tiền mua mấy con cá diếc nhỏ và một cân thịt lợn. Về đến sân nhà, ông nói to: “Lần này cá thịt đầy đủ cả!” Ông cố ý nói lớn, có lẽ để Tú Tú trong nhà nghe thấy.
Sau khi làm cơm trưa xong, Phong Nhị vì ngại ngồi ăn cùng con dâu, một mình trốn ra phố. Vợ ông bảo Đại Cước gọi Tú Tú ra ăn. Đại Cước ngượng ngùng vào phòng phía đông.

[Truyện được đăng tải duy nhất tại website Mỏ Truyện - https://motruyen.online/read/luu-luyen-va-doan-tuyet-sinh-van-vat&chuong=2]

Lúc này, Tú Tú đã tỉnh. Đại Cước rụt rè nói: “Em tỉnh rồi à? Tỉnh rồi thì ra gian chính ăn cơm.” Tú Tú ngẩn ngơ nhìn anh, nhìn một lúc rồi hỏi: “Sao tôi lại ở nhà anh?” Câu hỏi này khiến Đại Cước không biết trả lời thế nào. Anh lại nhìn Tú Tú, thấy nước mắt lăn dài trên khuôn mặt xinh đẹp của cô.
Đại Cước không dám ở lại đây lâu, bước ra ngoài kể lại cảnh này với mẹ. Bà mẹ nói: “Nó đang đau lòng. Cứ kệ nó trước, để nó khóc một trận đã.”
Tối đó, Tú Tú vẫn chưa rời giường, chỉ nghe trong phòng cô lúc khóc lúc ngừng; ngừng một lúc lại khóc tiếp. Trong lòng Phong Đại Cước lo lắng, đến nỗi không dám vào phòng phía đông ngủ. Phong Nhị hút thuốc, nhỏ giọng nói: “Con bé này, đã đến nông nỗi này, còn khóc gì nữa? Khóc cũng chẳng lấy lại được thân thể nguyên vẹn.” Ông lặp đi lặp lại. Mãi đến khi bị vợ đá mạnh một cái, ông mới im. Sau đó, cả ba người trong nhà ngồi đó thức trắng đêm.
Cuối cùng cũng đến sáng, cả nhà đang lo Tú Tú hai ngày đêm không ăn gì thì biết làm sao, bỗng nghe trong sân có tiếng động. Vợ Phong Nhị mở cửa, thấy Tú Tú đứng đó nhìn vào gian chính. Chưa kịp lên tiếng, Tú Tú đã nói: “Mặt trời mọc rồi, nấu cơm được chưa?”
Nghe câu này, cả ba người như trút được tảng đá trong lòng. Mắt bà mẹ rưng rưng, vội đáp lớn: “Ừ, nấu cơm! Nấu cơm!”
Bữa cơm ngon hôm qua cả nhà chưa nỡ ăn, vẫn giữ lại, bà mẹ mang ra bếp hâm nóng, rồi bưng lên bàn. Phong Nhị vẫn trốn ra ngoài, để vợ và con trai ăn cùng Tú Tú. Tú Tú vẫn ăn nhiều như bữa đầu. Xong bữa, cô ngẩng đầu nhìn mặt Đại Cước rồi cúi xuống nhìn bàn chân to đặt cạnh bàn ăn. Vợ Phong Nhị nhận ra, hơi lúng túng, vội ra hiệu bằng mắt cho con trai đang ăn. Đại Cước hiểu ý, giấu chân dưới gầm bàn. Tú Tú nói: “Anh không cần giấu, tôi xem giày anh làm kiểu gì. Mẹ, mẹ dạy con, con làm cho anh ấy một đôi.” Nghe vậy, mẹ con nhìn nhau, trong mắt ánh lên niềm vui vô hạn.
Chiều đó, vợ Phong Nhị lấy ra vài thước vải, mấy cuộn dây gai và ít vải vụn, dạy Tú Tú làm giày. Bà bảo Tú Tú, đôi giày to của con trai mấy năm trước khiến bà đau đầu, không chỉ vì to mà còn vì hình dạng kỳ lạ. Nó không giống chân người thường, hai đầu rộng giữa hẹp mà giữa lại lồi ra một cục. Vì thế làm giày rất khó, đế giày phải thế này, thân giày phải thế kia. Nói xong, bà lấy mẫu giày cắt bằng giấy, chỉ từng bước. Tú Tú vốn thạo may vá, từng làm giày cho cha và anh trai, được bà mẹ chỉ điểm chút là hiểu ngay, bắt đầu làm đế giày theo mẫu. Cô dùng giấy bìa làm lõi, bọc vải rồi lấy dây gai khâu từng mũi. Đế giày to đến mức khi Tú Tú ướm lên ngực, nó che gần nửa người cô. Cô cầm đế giày đặt trên đầu gối, cong người dùng dùi đục lỗ dây, dồn hết sức. Đục một lỗ, xỏ một đoạn dây gai, cô để dùi lên tóc chà xát lấy chút dầu, rồi lại cong người khâu một mũi… Đại Cước nhìn, mắt ngấn lệ, lặng lẽ vào phòng nhỏ phía đông, nằm sấp lên chiếc chăn còn giữ mùi hương của Tú Tú.
Hôm sau, Tô Tô đến. Thấy chị gái đang khâu đế đôi giày to, mắt cô đỏ hoe. Vợ Phong Nhị sợ làm phiền hai chị em nói chuyện bèn đứng dậy đi ra ngoài. Tô Tô liền nói chị không nên giận dỗi, nếu muốn tìm nhà chồng, ít nhất cũng phải chọn nhà tử tế và nên để nhà mẹ đẻ cho chút của hồi môn để sống cho tốt. Tú Tú cười khổ: “Chị đã là người nhà này rồi, còn nói những chuyện đó làm gì?”
Tô Tô lại chửi bọn thổ phỉ, chửi cha, bảo cha là đồ gian xảo, không có lòng người, đẩy hai chị em vào hố lửa. Tú Tú nói: “Nhà đó mà là hố lửa sao?” Tô Tô uất ức kêu lên: “Còn không phải hố lửa? Chị nghĩ Phí Văn Điển là người tốt à? Hôm đó, nghe chuyện chị trên núi, anh ta không muốn chị nữa, kéo em về rồi làm nhục! Thật lòng, em bị anh ta làm tổn thương sâu sắc, từ đó không để anh ta chạm vào người nữa…” Nghe vậy, sắc mặt Tú Tú đột nhiên thay đổi, quát em: “Tô Tô, em lại nói xấu anh ấy…” Tô Tô hiểu mình nói những lời này không đúng, bèn im miệng.
Tiếp đó, Tô Tô lại kể chuyện nhà mẹ đẻ. Cô nói cha vẫn đang tính toán sổ sách, luôn lẩm bẩm năm nay thu tiền lương thực quá ít. Mấy ngày nay anh trai dẫn người Thanh Kỳ Hội luyện võ, thề sẽ đấu với thổ phỉ. Chị dâu Liên Diệp vui mừng khôn xiết vì Tú Tú không lấy chút hồi môn nào, nói chuyện như hát. Đáng thương nhất là mẹ, trong lòng đau khổ, không ăn được, cả ngày nằm trên giường. Nói đến đây, thấy chị mang vẻ mặt buồn bã, Tô Tô đề nghị chị về thăm nhà. Tú Tú nói: “Chị đã thề không bước vào cửa nhà đó nữa, còn về làm gì?” Tô Tô nói: “Mẹ nhớ chị lắm.” Tú Tú đáp: “Em nhắn với mẹ, nhà này đối xử với chị không tệ, bảo mẹ đừng lo. Mẹ cứ ăn uống tử tế, giữ sức khỏe là được.” Thấy không thuyết phục được, Tô Tô đành đứng dậy rời đi.
Hai ngày sau, Tú Tú vẫn tiếp tục làm giày cho Đại Cước. Khâu xong đế giày to, cô làm đế giày nhỏ. Vợ Phong Nhị làm việc khác bên cạnh, vừa làm vừa trò chuyện với cô.
Tối đến, mỗi khi lên giường, Tú Tú lại lấy từ cổ áo ra một vật tròn màu xanh đeo trên dây lụa, nhìn chằm chằm. Cô ngẩn ngơ nhìn một lúc rồi lặng lẽ khóc. Phong Đại Cước không nhịn được, hỏi đó là gì, Tú Tú đáp đó là một miếng ngọc bội, vật hồi môn của mẹ cô, từ khi sinh ra đã được mẹ đeo cho. Giờ nhìn ngọc bội thì nhớ đến mẹ đang bệnh. Nói mãi nói mãi, khóc không ngừng. Đại Cước bảo: Em về thăm mẹ đi. Nhưng Tú Tú lắc đầu nói: Tôi không đi.
Ban ngày, cha con Phong Nhị không ở nhà, họ bận đi đắp tuyết cho ruộng lúa. Mấy ngày nay, tuyết trên đồng dần tan, nhưng trong các rãnh rệp vẫn còn nhiều. Phong Nhị không chịu nổi, dẫn con trai, mỗi người gánh hai sọt ra Nam Lĩnh, đắp tuyết lên mảnh đất hai mẫu gọi là “Toán Bàn Tử” của nhà. Hết chuyến này đến chuyến khác, những mầm lúa vừa ló lên từ tuyết lại bị phủ bởi lớp tuyết bẩn đã được di chuyển. Khi cả mảnh đất được phủ kín, Phong Nhị đứng ở bờ ruộng, lớn tiếng nói với con: “Coi như vừa có thêm một trận tuyết! Qua năm, con cứ đợi xem lúa xanh tốt thế nào!”
Ăn cơm tối xong, Đại Cước và Tú Tú, một trước một sau vào phòng phía đông. Thắp đèn lên, Đại Cước phát hiện đôi giày đặt trước giường. Anh kinh ngạc hỏi: “Xong rồi à?” Tú Tú đáp: “Xong rồi. Anh đi thử xem vừa không?” Đại Cước ngồi xuống mép giường, cởi đôi giày đầy bùn, xỏ đôi chân một lớn một nhỏ vào đôi giày lớn nhỏ. Anh đứng dậy đi vài bước, hào hứng nói: “Vừa! Thật sự vừa lắm!” Rồi ngồi lại mép giường, cười với Tú Tú. Tú Tú hỏi: “Cười gì?” Đại Cước nói: “Thật không ngờ, anh lại lấy được người vợ như em. Em thật sự muốn sống cả đời với anh sao?” Tú Tú cắn môi, đáp: “Không sống với anh thì sống với ai?” Đại Cước không biết nói gì thêm.
Hai người lặng lẽ ngồi cạnh giường một lúc, Tú Tú nói: “Ngủ đi.” Đại Cước gật đầu: “Ừ.” Cả hai đứng dậy dọn giường. Không ngờ đúng lúc này, Tú Tú bỗng đưa tay vào cạp quần, “ớ” lên một tiếng, rồi nói: “Anh ra ngoài một chút.” Đại Cước không hiểu chuyện gì, nghi hoặc bước ra ngoài. Vừa đứng một lát, anh nghe tiếng khóc của Tú Tú trong phòng. Anh vội chạy vào, thấy cô đang nằm sấp trên giường, người run lên từng đợt. Nhìn kỹ thấy tay trái cô cong bên thái dương, một ngón tay dựng lên, đỏ như cây nến. Đại Cước hoảng hốt, không biết chuyện gì, vội chạy ra gian chính gọi mẹ. Vợ Phong Nhị chạy đến, vỗ tay: “Trời ơi, tốt quá! Ông trời có mắt!” Bà kéo con ra ngoài, nhỏ giọng nói: “Đại Cước, được rồi. Mẹ đã nói với nó chuyện này, nó hiểu. Qua vài ngày nữa, con muốn làm gì thì làm.”
Lời mẹ nói khiến Phong Đại Cước choáng váng. Khi mẹ trở vào gian chính, anh vẫn đứng trong sân. Được rồi. Được rồi. Một cảm xúc lẫn lộn giữa buồn vui dâng trào trong lồng ngự khiến tim anh nặng trĩu.
Anh chậm rãi bước vào phòng, giờ Tú Tú đã nằm xuống, cạnh gối là bộ quần áo của cô. Đây là điều chưa từng có mấy đêm trước. Những đêm trước, Tú Tú luôn mặc nguyên quần áo đi ngủ. Đại Cước hiểu ra một tín hiệu. Tín hiệu ấy như tia chớp mùa hè lóe lên khiến đầu óc anh trống rỗng. Anh vội vã cởi hết quần áo, muốn đến gần Tú Tú nhưng không dám manh động, đành nằm ở đầu kia giường. Trong phòng, ngoài ngọn lửa đèn nhỏ lập lòe, chỉ còn tiếng thở gấp gáp của Đại Cước. Anh xấu hổ vì hơi thở của mình, cố nín lại. Nhưng khi lồng ngực chứa quá nhiều hơi, thả ra lại càng to và kéo dài hơn. Anh càng ngượng hơn. Nhưng đúng lúc này, bàn chân to của anh chạm phải một vật lạ. Đó là một bàn tay nhỏ đang run. Bàn tay ấy bóp nhẹ bàn chân anh rồi kéo mạnh. Cú kéo khiến cả người anh bị lôi đi. Anh lật chăn của Tú Tú, ôm lấy thân hình nhỏ nhắn. Không ngờ, vừa tìm được lối đi, vừa dò dẫm bước, anh như trượt chân rơi xuống vực. Kinh ngạc và bối rối, anh mở mắt, trước mặt là khuôn mặt xinh đẹp gần đến không thể gần hơn. Thế là máu trong người anh lại sôi trào, trong khoảnh khắc, anh tìm lại con đường vững chắc. Rồi, anh vừa gọi “Tú Tú! Tú Tú!” vừa hối hả lao tới. Khi anh lại vượt đỉnh núi, lao xuống vực, ngoảnh lại, anh thấy một biển đỏ rực. Đối diện biển ấy, anh và Tú Tú ôm chặt nhau, quấn quýt khóc nức nở…
Điền thị đã qua đời.
Những ngày qua, Điền thị nằm liệt giường, không ăn uống gì. Một ngày bà vú Lý ba bữa mang cơm canh đến, khổ tâm khuyên bà ăn, nhưng Điền thị vừa cầm đũa đã khóc nức nở: “Thương con gái ta, đến lúc đi chẳng ăn được miếng cơm nào…” Rồi bà quăng đũa, nằm vật xuống khóc. Tô Tô đến khuyên, Ninh Khả Kim và vợ cũng khuyên, cuối cùng chính lão gia Ninh Học Tường cũng đích thân khuyên, nhưng ai nói cũng vô ích. Qua bảy tám ngày, Điền thị kiệt sức, không còn nói được. Tối ngày hai mươi mốt tháng Chạp, khi Ninh Học Tường vào phòng ngủ, Điền thị bỗng nói rõ ràng: “Ông ơi, tôi chết rồi ông làm cho tôi cái nhà dày bao nhiêu tấc?” Ninh Học Tường đang mải nghĩ chuyện đòi nợ cuối năm, bực bội đáp: “Nói gì mà nói? Thật sự chết được sao?” Điền thị lại nói: “Ông làm cho tôi cái nhà bốn tấc nhé.” Ninh Học Tường thuận miệng: “Được thôi.” Điền thị không nói gì nữa. Nửa đêm, Ninh Học Tường thấy người ở cuối giường lạnh toát, ngồi dậy xem, Điền thị đã tắt thở. Thế là ông gọi con trai, con dâu và bà vú Lý đến. Sau khi mấy người đến, khóc lóc thảm thiết một trận. Tiếp đó con trai lui ra, để bà vú Lý và Liên Diệp thay quần áo cho Điền thị. Khi Điền thị được lột trần, Ninh Học Tường nhìn cái bụng hóp sâu của vợ, bất giác nhớ lại đêm tân hôn hai mươi ba năm trước, lần đầu thấy cơ thể bà cũng gầy gò thế này. Hai mươi ba năm, cái bụng ấy sinh ra sáu đứa con, đứa chết thì mất, đứa sống còn một trai hai gái. Giờ người phụ nữ này mãi mãi rời bỏ gia đình, mà trong bụng chẳng mang theo một hạt lương thực nào của nhà… Nghĩ đến đây, Ninh Học Tường đau lòng khôn xiết, không nhịn được gào khóc thảm thiết, vừa khóc vừa nói: “Bà ơi, bà yên tâm, ta nhất định làm cho bà cái nhà bốn tấc!”
Ngay lúc này, cha con Ninh Học Tường bắt đầu bàn chuyện tang lễ. Theo lệ thường, trước tiên phải mời người quản việc. Ninh Khả Kim đề xuất mời người anh em họ xa Ninh Học Thi, người rành nghi thức cưới hỏi, tang lễ. Nhưng ông không đồng ý, nói: Mấy hôm trước, khi Tú Tú vừa gặp chuyện, nó đã thay người đến hỏi mua đất, đủ thấy lòng dạ nó không ngay thẳng. Ninh Khả Kim hỏi: Vậy mời ai? Ông đáp: Mời chú hai của con. Ninh Khả Kim vội đi mời chú hai Ninh Học Thụy. Khi Ninh Học Thụy đến, ông hỏi anh trai và cháu trai định tổ chức tang lễ thế nào. Dù là trưởng làng, Ninh Học Thụy theo lối “vô vi nhi trị”, nhiều việc không quản, nhất là năm gần đây, khi cháu trai Ninh Khả Kim lập Thanh Kỳ Hội, xen vào nhiều việc làng, ông càng thảnh thơi, cả ngày ở nhà đọc sách cổ. Giờ đây, với tang lễ của chị dâu, ông cũng giữ thái độ này. Ninh Khả Kim nói: “Phải làm tử tế! Mời hai đội thổi kèn! Qua bảy ngày mới đưa tang!” Ninh Học Tường lập tức trừng mắt, bực bội nói với con trai: “Mày còn muốn sống nữa không? Nghĩ làm to là hay sao? Mày muốn nhà họ Ninh bị một mồi lửa thiêu rụi à?”
Lời này khiến chú cháu Ninh Học Thụy và Ninh Khả Kim giật mình. Cả hai đều nhớ đến trận hỏa hoạn năm xưa. Trận lửa thời Hàm Phong nhà Thanh, đến nay vẫn khiến con cháu nhà họ Ninh sợ hãi và thầm thở dài. Tổ tiên họ là Ninh Tham, làm quan phát đạt. Con trai ông là Ninh Quyết, khiến gia nghiệp rực rỡ như mặt trời ban trưa, nhưng đến năm sáu mươi tuổi thì qua đời. Con trai ông ấy là Ninh Bạch, tổ chức tang lễ cho cha rất long trọng: làm chay bốn mươi chín ngày, mời hơn trăm tăng đạo, bảy tám chục thổi kèn, dựng linh xa từ nhà đến mộ, dài ba dặm. Mỗi ngày, tăng đạo tụng kinh, đốt nhà âm, diễn trò, người xem từ các làng lân cận kéo đến đông nghẹt. Đến ngày hai mươi mốt, đúng dịp chợ phiên miếu Thiên Ngưu, người xem càng đông như núi. Không ngờ trưa hôm đó gió tây nam nổi mạnh, một góc rạp tang bỗng bốc cháy, chớp mắt cả con phố thành lò lửa. Người xem chạy tán loạn, giẫm đạp nhau, tiếng khóc hét vang trời. Kỳ lạ hơn, có người chạy thoát ra khỏi làng, nhưng những manh chiếu cháy từ làng bay lên trời rơi xuống, quấn lấy họ, thiêu sống. Trận hỏa hoạn ấy khiến hơn hai trăm người chết, trong đó nhà họ Ninh mất hơn chục mạng. Việc này kinh động đến quan phủ, buộc nhà họ Ninh bồi thường tiền an táng cho mỗi người chết. Từ đó nhà họ Ninh không còn huy hoàng như xưa…
Ninh Khả Kim nói: “Không làm to cũng được, nhưng phải ra hồn để mẹ con ra đi thanh thản – mời một đội thổi kèn, ba ngày đưa tang, được không?” Ninh Học Tường đáp: “Được, cứ thế mà làm.”
Tiếp đó, họ sắp xếp báo tang cho thân thích. Việc này do Ninh Học Thụy lập danh sách, giao cho con trai Ninh Khả Bích dẫn vài người trong họ hàng đảm nhận. Phía Ninh Học Tường thì sai Tiểu Thuyết đi một vòng đến các nhà tá điền, thông báo cho họ biết.
Người báo tang vừa đi không lâu, Tô Tô khóc lóc thảm thiết chạy đến, vừa vào cửa đã khóc đến ngất đi mấy lần. Nhưng đợi mãi vẫn không thấy Tú Tú đến. Khi Ninh Khả Bích trở về, hỏi cậu ta đã báo cho Tú Tú chưa, cậu đáp đã báo, Tú Tú chỉ khóc nhưng không về nhà mẹ đẻ. Ninh Học Tường tức giận chửi: “Con bé này lòng dạ cứng rắn thật! Nó khác gì chết trên núi không về!”
Đến trưa, thân thích gần xa đến gần đủ, vừa đến liền mặc đồ tang, sân nhà họ Ninh trắng xóa như vừa có trận tuyết mới. Cỗ quan tài bốn tấc do thợ mộc gấp rút làm đã đặt Điền thị nằm trong gian chính, Ninh Khả Kim cùng vợ và Tô Tô canh bên cạnh. Ngoài cửa là rạp tang và bàn thờ. Ninh Học Thụy đứng cạnh bàn, mỗi khi có người đến viếng quỳ lạy, ông gọi vào trong nhà: “Cất tiếng khóc!” Mấy người trong nhà liền gào lên: “Mẹ ơi! Mẹ đáng thương của con ơi!” Người viếng lạy xong, sang hai phòng bên ăn tiệc khách, Ninh Học Thụy lại hô: “Tiết chế!” Tiếng khóc trong nhà chuyển thành tĩnh lặng. Đây là cách làm phổ biến trong tang lễ, để con cái giữ giọng, tránh khản tiếng sớm, đảm bảo đến lúc đưa tang và làm lễ cúng vẫn khóc to được.
Một số tá điền cũng đến, mỗi người mang ít tiền giấy và một tấm vải xanh vài thước làm màn. Trong đó có một người đàn ông họ Phí trong làng, sau khi quỳ lạy xong, không đi mà tìm Ninh Học Tường ở sân sau, nói: “Lão gia, tôi thấy bọn cậu chủ khóc không đủ sức, tôi và người nhà đến phụ giúp khóc được không?” Thấy anh ta nói vậy, Ninh Học Tường cảm động, nói: “Muốn khóc thì khóc đi!” Thế là một lúc sau, người đàn ông này cùng một người phụ nữ chân tay thô kệch đến phòng đặt linh cữu. “Bà ơi! Bà nội đáng thương của con ơi!” Tiếng khóc sang sảng của hai người át cả tiếng khóc của cậu chủ và cô chủ, khiến không khí đau thương trong sân nhà họ Ninh càng đậm hơn.
Phong Đại Cước đến gần trưa. Theo ý ban đầu của cha anh, anh định đến nhà họ Ninh cùng Tú Tú. Nhưng Tú Tú nhất quyết không đi, dù khóc không ngừng, Đại Cước đành ở lại bên cô. Phong Nhị nói dù sao nhà ta cũng là thông gia với nhà họ Ninh, lại còn thuê đất nhà họ nên phải đến viếng. Ông rủ em trai Phong Tứ, định đi cùng Đại Cước. Hai anh em bàn, theo lệ thường, Đại Cước là con rể nhà họ Ninh, là khách quý, phải đeo khăn tang và ở lại nhà họ Ninh đến ngày đưa tang. Hôm nay dẫn anh đi, nếu nhà họ Ninh có ý đó sẽ giữ anh ở lại; nếu không thì chỉ viếng như thường, lạy xong rồi về. Gần trưa, Phong Tứ nói đi thôi, muộn rồi, thế là hai anh em dẫn Đại Cước ra khỏi nhà.
Đến nhà họ Ninh, trước tiên hai anh em Phong Nhị đến chỗ ghi sổ. Người giữ sổ là Ninh Học Hằng, nhìn Phong Đại Cước được cha cố ý đẩy lên trước bàn liền bỏ bút đi vào sân sau. Phong Nhị và Phong Tứ biết ông ta đi bẩm báo Ninh Học Tường, bèn hồi hộp chờ đợi. Khi Ninh Học Hằng quay lại, họ hy vọng ông sẽ đưa hai chiếc mũ tang thường cho anh em họ và một dải băng tang dài dành cho khách quý để buộc vào eo Đại Cước. Nhưng Ninh Học Hằng chỉ nhàn nhạt đưa ba chiếc mũ tang hai góc, đồng thời hô to: “Lại thêm ba người!” Lòng Phong Nhị lập tức nguội lạnh, đành dẫn con trai đi về phía bàn thờ. Hai anh em đi trước, Đại Cước theo sau, vái một cái rồi quỳ xuống, dập đầu bốn lần, sau đó đứng dậy, lặng lẽ rời đi.
Đến phòng phía đông, có người chạy việc mời họ sang dùng cơm. Phong Nhị nói: “Ăn thì ăn.” Đại Cước cảm thấy chán nản, bèn nói: “Hai người ăn đi, con về thăm Tú Tú.” Nói xong, anh rời khỏi cổng chính. Bên này, Phong Tứ thì thầm với anh trai: “Trong linh đường sao lắm người khóc thế? Là ai vậy? Để tôi xem.” Rồi lẻn ra gần linh xa dòm ngó. Một lúc sau quay lại, nói với Phong Nhị: “Anh, ghê gớm thật!” Phong Nhị hỏi: “Sao thế?” Phong Tứ đáp: “Nhiều tá điền đang ở đó khóc phụ! Anh xem, sao em không nghĩ ra cách này!” Phong Nhị nói: “Mày vay tiền nhà người ta năm nay chưa trả à?” Phong Tứ đáp: “Lấy gì trả? – Không được, em phải tìm lão gia nói một tiếng, kéo chút thân tình.” Nói rồi ông ta đi khắp nơi tìm Ninh Học Tường. Tìm được ở sân sau, Phong Tứ nói ý định, không ngờ Ninh Học Tường hất cằm: “Mày thôi đi, mẹ thằng Khả Kim không cần tiếng bò rống của mày. Nhà mày định giở trò gì, tao còn không rõ? Mau về lấy tiền trả nợ đi!” Phong Tứ nghe vậy, mặt vàng như nghệ: “Lão gia, tôi thật sự không có cách. Tính năm nay nuôi được con lợn, ai ngờ lợn chết.” Ninh Học Tường nói: “Mày khất nợ năm này qua năm khác, khất đến bao giờ? Con mày, thằng Nị Vị đã lớn thế rồi.” Nghe Ninh Học Tường nhắc đến, Phong Tứ không nói nên lời. Nhà ông ta vốn có chút cơ nghiệp, nhưng từ khi vợ cưới về mắc bệnh ba bốn năm, bán gần hết đất để mua thuốc. Khi con trai Nị Vị tám tuổi đột nhiên mắc bệnh cấp tính, ông không dám bán đất nữa, vay nhà họ Ninh hai đồng đại dương, ai ngờ năm này qua năm khác không trả nổi, bảy năm trôi qua, nhà họ Ninh bảo tính cả gốc lẫn lãi đã lên mấy chục đồng. Ninh Học Tường lại nói: “Không thì đưa mảnh đất trên Tây Lĩnh cho tao.” Phong Tứ vội nói: “Không được, lão gia, đó là chút gia sản cuối cùng của tôi!” Ninh Học Tường đáp: “Vậy thì lấy tiền ra.” Phong Tứ bước ra, đứng ngây trong sân, nghe tiếng mấy tá điền khóc rộn ràng trước linh đường, lòng trào dâng ghen tức. Ông thầm chửi: “Khóc đi khóc đi, để Ninh Học Tường ngủ với mẹ chúng mày!” Vào phòng phía đông ăn uống, ông uống hai bát rượu, ăn ba bát cơm. Rượu ngấm, ông thẳng cổ chửi đổng, vừa chửi được hai câu, người giúp việc nhà họ Ninh hỏi ông chửi ai. Phong Nhị thấy tình hình không ổn, vội kéo em trai đi.
Ngày thứ ba là ngày nhà họ Ninh đưa tang. Cảnh kéo quan tài ra khỏi nhà rất trang nghiêm. Một đội thổi kèn được mời đến từ phía Nam, đã bận rộn hai ngày hai đêm tại nhà họ Ninh, đi đầu, đồng loạt chơi các loại nhạc cụ, tạo nên giai điệu tang lễ cao trào nhất. Tiếp theo là gần trăm thành viên Thanh Kỳ Hội, chia thành đội dao và đội súng, nghiêm trang bước đi, do Ninh Khả Kim, thủ lĩnh Thanh Kỳ Hội miếu Thiên Ngưu, đặc biệt sắp xếp. Sau đó là đám đông tá điền đeo khăn tang, khóc lóc. Kế đến là con cháu nhà họ Ninh, dẫn đầu là Ninh Khả Kim dẫn quan tài đi. Phía sau cỗ quan tài bốn tấc dày, sơn dầu màu vàng nhạt, là thân thích gần xa của nhà họ Ninh. Như vậy, đoàn người tham gia chiếm đến một phần ba dân số làng Thiên Ngưu. Những người còn lại đứng hai bên đường xem. Một số người khôn ngoan nhìn vài cái, rồi vội chạy đến miếu Thổ Địa để chiếm vị trí tốt xem lễ cúng đường.
Miếu Thổ Địa nằm phía đông con bò sắt, ngoài cổng nam, cách bò sắt bảy tám trượng. “Ông Thổ Địa họ Trương, làng giàu ở nhà ngói, làng nghèo ở vại sứt.” Trong lịch sử làng, Thổ Địa từng ở miếu ngói nhỏ, cũng từng ở vại sứt cao ba thước. Thời ở vại sứt đã xa xưa, chỉ còn trong truyền thuyết. Chuyện kể, một năm nọ, một tối nọ, một người phụ nữ trong làng đang nướng bánh bột, bận rộn thì bỗng cảm thấy có người từ phía sau thò tay sờ ngực mình. Bà ngại không dám quay lại xem, chỉ đập tay vào tay kẻ đó, người kia liền bỏ đi. Vài ngày sau, một tối khác, khi bà lại nướng bánh, lại có tay thò đến. Lúc này bà đang cầm tấm gỗ nướng bánh, trên gỗ dính một cục bột, bèn giơ tay đánh người phía sau, kẻ đó chạy mất. Lần này bà kể với chồng. Hôm sau người chồng để ý tìm kiếm, xem ai làm chuyện bỉ ổi ấy. Tìm mãi không ra, đến trước miếu Thổ Địa, bỗng thấy trên đầu tượng Thổ Địa dính một mảng bột bánh trắng xóa, mới biết thần này không giữ quy tắc, nảy lòng tà. Chuyện lan ra, dân làng nổi giận phá miếu Thổ Địa, lấy một cái vại sứ lớn, đập một mẻ sứt, úp lại, bắt Thổ Địa chui vào chịu phạt. Nhiều năm sau, trong làng không còn thấy phụ nữ bị quấy nhiễu, Thổ Địa mới được dân làng tha thứ, xây lại miếu nhỏ tử tế cho ở.
Ngôi miếu Thổ Địa hiện nay được cho là nơi Thổ Địa năm xưa cải tà quy chính để lấy lại lòng tin. Miếu cao bằng một người rưỡi, tường xanh, ngói xanh, cửa rộng một thước, cao ba thước, còn dán đôi câu đối rách nát: “An nhân tự an, trạch hữu thổ, thủy hữu tài.” Trước cửa là bàn thờ đá đỏ. Xung quanh miếu mọc hơn chục cây bách to bằng miệng bát. Thổ Địa quản lý hộ tịch cả làng, người chết đi, hồn ma phải bị giam ở đây ba ngày. Vì vậy, trong ba ngày, gia đình tang chủ phải ba lần mỗi ngày đến “đưa canh” – con dâu người chết mang một vại cháo gạo, đi quanh miếu ba vòng, rưới cho Thổ Địa, còn người khác đốt nhiều tiền giấy để làm vui lòng ngài, mong ngài chăm sóc hồn ma mới. Sau ba ngày đưa canh, xung quanh miếu đã phủ một lớp tro trắng mỏng như giấy, trước cửa miếu tro giấy chất thành đống đen sì. Trong bối cảnh ấy, tang lễ của Điền thị bắt đầu nghi thức cuối cùng, cũng là long trọng nhất.
Trên khoảng đất trống trước miếu, bàn thờ đã được bày sẵn, trước bàn trải mười hai tấm chiếu sậy từ gần đến xa thành một hàng. Lúc này, đoàn đưa tang với tiếng khóc vang trời chậm rãi tiến đến. Ninh Học Thụy đi đầu, dẫn con trai hiếu Ninh Khả Kim đặt bài vị lên bàn thờ, để con cháu nhà họ Ninh quỳ thành hai hàng hai bên bàn, rồi ra lệnh bắt đầu nghi thức.
Trước tiên mời “hồng khách” mở lễ. Nhà họ Ninh mời Chử lão gia là Chử Lương Thiện, ở Chử Gia Trang, là chủ Thanh Kỳ Hội của vài làng lân cận, uy danh hiển hách, phong thái uy nghiêm. Mời được người như vậy làm “hồng khách” quả thực thể hiện bản lĩnh của cậu cả nhà họ Ninh. Trước mười hai tấm chiếu phía bàn thờ, hội trưởng Chử mặc trường sam, đội mũ lễ, đứng từ xa, dáng vẻ trang nghiêm, khiến người nhìn sinh lòng kính phục. Lúc này, con trai hiếu Ninh Khả Kim khóc lóc, lảo đảo quỳ trước ông, tỏ ý mời. Hội trưởng Chử ra hiệu cho đứng dậy, để hiếu tử về vị trí quỳ trước bàn, rồi bắt đầu lạy. Ông vừa đến tấm chiếu đầu tiên đã có người chạy trước vài bước, trải một tấm thảm đỏ vuông hai thước. Hội trưởng Chử chậm rãi bước đến trước thảm, đứng vững như tùng một lát, vái xa xa về phía bàn thờ rồi quỳ xuống. Người kéo thảm khom lưng chỉnh vạt áo dài của ông, che kín hai chân, hội trưởng Chử mới lạy một lạy, chậm rãi đứng dậy, lại vái một cái. Toàn bộ động tác tao nhã đúng mực, dừng khởi nhịp nhàng, khiến người xem xung quanh trầm trồ. Lạy xong tấm chiếu đầu, ông sang tấm thứ hai. Ông lạy, con cháu quỳ hai bên cũng lạy theo, những cái đầu đội khăn tang nhấp nhô như vườn lê trong gió thu. Hội trưởng Chử di chuyển trái phải, mỗi lần quỳ lạy số lần khác nhau. Vượt qua một tấm chiếu lại một tấm nữa, mất nửa ngày mới lạy đến bàn thờ. Trước bàn, ông truyền đũa, thắp hương, dâng rượu rồi vừa lạy vừa lui trên mười hai tấm chiếu. Cuối cùng có người nhận ra quy tắc lạy này, nhỏ giọng kêu: “Ồ, lạy theo kiểu ‘Đại Gia Quan’!” “Đại Gia Quan” là nghi thức lạy long trọng nhất, khiến người nhà họ Ninh cảm động sâu sắc, tiếng khóc bùng lên một trận vang dội.
Trong lúc hội trưởng Chử vừa lạy vừa lui, gần bàn thờ xảy ra một chút xáo động. Xáo động bắt nguồn từ cha con Ninh Học Thụy. Vốn dĩ, Ninh Học Thụy đang nghiêm túc làm nhiệm vụ quản việc bên bàn thờ, còn con trai ông là Ninh Khả Bích quỳ trước bàn phụ lạy. Không hiểu sao, Ninh Học Thụy bất ngờ tung một cước, đá mạnh vào mông con trai. Người xem xung quanh nhìn ngó, hỏi han, rồi hiểu ra: Hóa ra Ninh Khả Bích vẫn đeo lồng chim cút ở thắt lưng trong dịp này. Vừa rồi, nghe tiếng kêu “cù cù” từ lồng, anh ta ngừng lạy, thò tay xem lồng chim. Mọi người nhìn vị cậu chủ của trưởng làng, quả nhiên thấy khi anh ta cong mông lạy tiếp, thắt lưng lộ ra một vật đen to cỡ hai nắm tay. Mọi người lắc đầu thở dài, nói thằng bé này thật không ra gì, bà cô chết mà nó lại thế này!
Sau khi “hồng khách” làm lễ xong, đến lượt khách quý nhà họ Ninh. Mọi người ngẩng đầu nhìn, dưới dãy chiếu lạy đã thấy Phí Văn Điển, con rể thứ hai của Ninh Học Tường. Cậu để kiểu tóc “Tây” cắt ở Lâm Nghi, mặc áo đen, khuôn mặt chữ điền trắng trẻo ánh chút ngượng ngùng, trông rất bảnh bao. Khi mọi người đang chờ xem cậu lạy, bỗng vang lên tiếng khóc xé lòng từ ngoài vòng người. Mọi người quay lại nhìn, hóa ra là Tú Tú! Cô vừa khóc vừa kéo Phong Đại Cước chạy đến, xuyên qua lối người nhường ra, cô quỳ sụp trước bàn thờ cùng Đại Cước. “Mẹ ơi! Mẹ ơi! Con gái mẹ đến rồi! Mẹ mở mắt nhìn con gái đáng thương của mẹ…” Đại Cước không khóc, chỉ lặng lẽ lạy từng cái. Nhìn đôi nam nữ trẻ này, mọi người xót xa không thôi.

Bình Luận

0 Thảo luận